Giới thiệu chung

Huyện Hiệp Đức được thành lập theo Quyết định số 289-QĐ/HĐBT, ngày 31/12/1985 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) trên cơ sở sáp nhập các xã của 3 huyện: Quế Sơn (Quế Thọ, Quế Tân) Thăng Bình (Thăng Phước, Bình Lâm) và Phước Sơn (Phước Gia, Phước Trà). Thực hiện Quyết định của Hội đồng Bộ trưởng, sáng ngày 25/02/1986, tại thôn 7 xã Quế Thọ (nay là thị trấn Tân Bình), Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng tổ chức lễ công bố Quyết định thành lập huyện Hiệp Đức.

Huyện được thành lập trong một thời điểm có ý nghĩa đặc biệt, là năm diễn ra Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện. Đường lối đổi mới của Đảng đã mở ra trang sử mới trong sự nghiệp xây dựng huyện nhà, tạo niềm tin tưởng, phấn khởi cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân, đồng thời cũng đặt ra những thách thức lớn trên bước chuyển mình từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trong 39 năm qua, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân Hiệp Đức đã không ngừng kế thừa, phát huy truyền thống anh hùng cách mạng, nêu cao tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần lao động cần cù, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu, tích cực tranh thủ sự trợ giúp của Trung ương, của tỉnh để từng bước xây dựng huyện ngày càng phát triển toàn diện và đạt nhiều thành tựu trên các lĩnh vực.

Về kinh tế, cơ cấu chuyển dịch đúng hướng, tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp - xây dựng và thương mại - dịch vụ; nông nghiệp chuyển dần theo hướng sản xuất hàng hóa, gắn phát triển nông nghiệp với xây dựng nông thôn mới, bảo vệ môi trường và đảm bảo an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững, nâng cao đời sống Nhân dân. Theo đó, tỷ trọng nông nghiệp còn 21,91%; tỷ trọng công nghiệp - xây dựng đạt 50,29%; thương mại - dịch vụ 27,8%. Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, tập trung, quy mô lớn, nâng cao giá trị gia tăng, ứng dụng công nghệ cao; chuyển đổi diện tích trồng lúa không hiệu quả và chuyển đổi sang nguồn giống chất lượng cao, gắn với tiếp tục đầu tư kết cấu hạ tầng thủy lợi, ứng dụng khoa học kỹ thuật, cơ giới hóa vào sản xuất. Hình thành các vùng chuyên canh cây trồng, nhiều mô hình trồng trọt, chăn nuôi có hiệu quả; đã xây dựng được gần 400 vườn cho hiệu quả kinh tế; bước đầu hình thành các trang trại chăn nuôi và lâm nghiệp quy mô lớn. Phát triển kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác, hợp tác xã nông nghiệp, mô hình sản xuất đa giá trị, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản, gắn với xây dựng thương hiệu hàng hóa sản phẩm đặc trưng của địa phương (46 dự án liên kết; 04 sản phẩm Vietgap, 01 sản phẩm Haccp và 20 sản phẩm OCOP).... góp phần làm thay đổi tư duy sản xuất của người dân. Toàn huyện hiện có 15 cụm công nghiệp được quy hoạch với tổng diện tích hơn 224 ha và 01 khu công nghiệp Bình Lâm - Bình Lãnh với diện tích 490 ha; trong đó, có 07 cụm công nghiệp với 08 dự án đang hoạt động, góp phần quan trọng giải quyết việc làm, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động. Thương mại - dịch vụ được mở rộng và tăng trưởng khá, với hơn 1.520 cơ sở kinh doanh, giải quyết việc làm cho hơn 2.000 lao động. Mạng lưới thương mại được mở rộng đến hầu hết các xã trong huyện, chợ Hiệp Đức, chợ Việt An được nâng cấp, xây mới, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của dịch vụ vận tải đã đáp ứng nhu cầu mua bán và lưu thông hàng hóa, đi lại trên địa bàn. Đã quy hoạch, xây dựng một số điểm du lịch sinh thái, văn hóa- lịch sử; đưa vào khai thác sử dụng hiệu quả như Khu Di tích Khu 5, đường vào điểm du lịch Suối Cái. Tổng giá trị sản xuất thương mại - dịch vụ năm 2020 đạt 709,3 tỷ đồng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt trên 500 tỷ đồng/năm. Tính đến cuối năm 2024, giá trị sản xuất nông - lâm - thủy sản đạt 581,3 tỷ đồng; công nghiệp - xây dựng: 897,8 tỷ đồng; thương mại - dịch vụ: 731,3 tỷ đồng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt 680,8 tỷ đồng. Thu nhập bình quân đầu người năm 2024 trên 48 triệu đồng/người/năm.

Kết cấu hạ tầng được đầu tư xây dựng đồng bộ với các công trình có quy mô lớn, mang tính đột phá, liên kết vùng được đầu tư như: Quốc lộ 14E, các tuyến ĐT 615 và 615B - đoạn qua địa bàn huyện; Cầu Tân Bình và đường tránh Quốc lộ 14E qua nội thị thị trấn Tân Bình, huyện Hiệp Đức; Cầu Ồ Ồ và đường nội thị phía Bắc thị trấn Tân An; Đường bao từ ngõ 3 Già Bang, thị trấn Tân Bình đến trung tâm xã Quế Lưu; Đường vào khu sản xuất Na Sơn - Đông Bình, xã Thăng Phước, huyện Hiệp Đức…giúp rút ngắn khoảng cách giữa các vùng miền, tạo thuận lợi giao lưu văn hóa, phát triển kinh tế - xã hội, mở rộng giao thương với các địa phương khác trong và ngoài tỉnh. Hệ thống đường liên thôn, liên xóm được bê tông hóa. Nhiều công trình thủy lợi có quy mô lớn được đầu tư như: hồ Việt An, Bình Hòa, Tam Bảo, Bà Sơn, An Tây… đảm bảo đảm bảo nước tưới thông suốt trong vụ. Điện lưới quốc gia đã phủ kín các thôn, tổ. Mạng lưới trường học, y tế, các cơ quan hành chính của huyện và xã được đầu tư xây mới, kiên cố, khang trang. Trụ sở làm việc của các xã, thị trấn được kiên cố, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình hiện nay.

Xây dựng nông thôn mới và đô thị đạt kết quả khá toàn diện; đến nay, toàn huyện đã có 04 xã đạt chuẩn nông thôn mới (Bình Lâm, Quế Thọ, Bình Sơn, Quế Tân); bình quân toàn huyện đạt 16,5 tiêu chí/xã (theo tiêu chí mới); huyện đạt 17/36 chỉ tiêu huyện nông thôn mới. Hạ tầng kinh tế, xã hội nông thôn đã có nhiều thay đổi tích cực, hiện đại hóa một bước theo hướng đồng bộ, ngày càng khang trang, dần bắt kịp nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội chung. Hạ tầng đô thị tiếp tục được đầu tư, từng bước hình thành hạ tầng khung, tuyến tránh đô thị theo quy hoạch, mở rộng không gian về hướng Tây thị trấn Tân Bình. Định hướng và xúc tiến các bước đầu tư phát triển đô thị Việt An, đô thị Sông Trà.

Lĩnh vực văn hoá, thông tin, thể dục - thể thao có bước phát triển toàn diện cả chiều rộng, lẫn chiều sâu, đa dạng về hình thức, phong phú về nội dung. Các thiết chế vǎn hóa ở cơ sở được đầu tư, nâng cấp và phát huy hiệu quả sử dụng. Nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao diễn ra sôi nổi; thể thao thành tích cao được chú trọng đầu tư, thể thao quần chúng phát triển rộng khắp. Phong trào xây dựng đời sống văn hóa, nếp sống văn minh có nhiều chuyển biến tích cực; khôi phục có hiệu quả một số loại hình nghệ thuật, lễ hội, thể thao truyền thống như: Múa cồng chiêng, hát dân ca, đua thuyền... góp phần nâng cao giá trị giáo dục truyền thống, đạo đức, lối sống tốt đẹp, tinh thần đoàn kết trong Nhân dân.

Sự nghiệp giáo dục được quan tâm đầu tư đồng bộ, nâng cao cả về chất lượng giảng dạy lẫn xây dựng, hoàn thiện cơ sở vật chất. Giáo dục đại trà lẫn mũi nhọn có bước chuyển biến rõ nét, số học sinh tốt nghiệp các cấp, học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh hằng năm đều tăng. Bình quân hằng năm huy động trẻ từ 3 đến 5 tuổi ra lớp đạt trên 85%; có 100% trẻ 5 tuổi hoàn thành chương trình giáo dục mầm non; 99% học sinh hoàn thành chương trình tiểu học; cấp trung học cơ sở có 99,9% số học sinh tốt nghiệp, hiệu quả đào tạo đạt 96,4%; cấp trung học phổ thông có 97,94% tỷ lệ tốt nghiệp, hiệu quả đào tạo đạt 96,9%; học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông vào đại học bình quân hằng năm 88,6%. Số trường đạt chuẩn quốc gia chiếm tỷ lệ 83,3%; số phòng học được kiên cố hóa đạt 94%. Huyện đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức 3, xóa mù chữ mức 2; phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức 2 và duy trì tốt kết quả phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi.

Hệ thống y tế được tăng cường, 100% xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế; tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt trên 99%. Công tác chăm sóc sức khỏe Nhân dân, chính sách đối với người có công, an sinh xã hội được thực hiện bảo đảm, kịp thời. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế tăng nhanh qua các năm, hết năm 2024 đạt 99,4% dân số toàn huyện; tỷ lệ hộ sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 99,59%...

Chính sách đối với người có công và công tác an sinh xã hội được triển khai nghiêm túc, đúng đối tượng, tạo hiệu ứng tốt trong xã hội. Chương trình xóa nhà tạm, giảm nghèo bền vững…thu được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Đến nay, Hiệp Đức đã hoàn thành mục tiêu xóa nhà tạm; giảm tỷ lệ hộ nghèo còn 5,1%. Riêng đối với các xã vùng cao, mức thu nhập bình quân đầu người đạt 42,2 triệu đồng/người/năm; tỷ lệ hộ nghèo còn 9,67%; theo đó đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao được cải thiện một cách rõ nét, ổn định và không còn tình trạng du canh, du cư; các phong tục tập quán lạc hậu từng bước được đẩy lùi.

Quốc phòng, quân sự địa phương, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; xây dựng lực lượng vũ trang ngày càng vững mạnh cả về số lượng và chất lượng. Hiện nay, 100% Chỉ huy trưởng Quân sự xã, thị trấn có trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên và được cơ cấu vào cấp ủy cùng cấp; 100% xã, thị trấn đã thành lập chi bộ quân sự và có cấp ủy. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng huyện thành khu vực phòng thủ cơ bản, liên hoàn, vững chắc, gắn kinh tế xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh. Công tác hậu phương quân đội, phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, xây dựng thôn, tổ, hộ an toàn luôn được chú trọng, nhiệm vụ tuần tra, “sẵn sàng chiến đấu” bảo đảm, giao quân hằng năm đạt chỉ tiêu. Lực lượng công an huyện và cơ sở được củng cố, kiện toàn; 100% xã, thị trấn được bố trí công an chính quy. Phát huy tốt vai trò nòng cốt của lực lượng công an trong công tác đấu tranh trấn áp tội phạm, tệ nạn xã hội, trật tự an toàn giao thông, phòng chống cháy nổ. Thực hiện có hiệu quả Đề án khu dân cư tự quản về an ninh trật tự và phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”. Qua đó, huy động được sức mạnh của cả hệ thống chính trị, tranh thủ được sự ủng hộ của Nhân dân trong phát hiện, tố giác, truy bắt tội phạm, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, không để bị động, bất ngờ. Năm 2024, có 100% cơ quan, đơn vị; 100% xã, thị trấn; 97,8% khu dân cư đạt tiêu chuẩn “An toàn về an ninh trật tự”.  Các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được thực hiện đúng quy định của pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội với bình quân trên 97% vụ việc thụ lý được xử lý kịp thời hằng năm. Công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân có bước chuyển biến tích cực; tiếp nhận và giải quyết kịp thời, dứt điểm nhiều trường hợp vướng mắc, không để xảy ra khiếu kiện đông người, vượt cấp, góp phần tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Công tác xây dựng chính quyền có nhiều đổi mới, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong tình hình hiện nay. Vai trò giám sát của HĐND, hiệu lực quản lý, điều hành của UBND các cấp được phát huy. Dân chủ được mở rộng, từng bước thực hiện tốt hơn phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Công tác cải cách hành đạt kết quả tốt; đến nay, 100% cơ quan, đơn vị được đầu tư trang thiết bị công nghệ thông tin, kết nối internet, lắp đặt hệ thống mạng nội bộ, mạng diện rộng, ứng dụng các phần mềm cơ sở dữ liệu chuyên ngành; tỷ lệ trao đổi văn bản điện tử đạt 100%, sử dụng chữ ký số trên văn bản điện tử đạt trên 89,3%, hệ thống thư điện tử công vụ đang hoạt động với 725 tài khoản. Hệ thống một cửa được trang bị đầy đủ trang thiết bị, cán bộ, công chức có trình độ năng lực chuyên môn tốt, lề lối, tác phong làm việc khoa học, thái độ ứng xử chuẩn mực. Thực hiện nghiêm lịch tiếp công dân định kỳ của lãnh đạo, người đứng đầu cấp ủy để đối thoại, giải quyết những những vấn đề bức xúc, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân; đẩy mạnh thực hiện cải cách thủ tục hành chính qua dịch vụ công trực tuyến, đảm bảo giải quyết hồ sơ kịp thời, chính xác, đúng quy định, từng bước nâng cao hiệu quả phục vụ và sự hài lòng cho người dân. Năm 2024, tỷ lệ giải quyết hồ sơ trực tuyến đúng hạn cấp huyện đạt 97,16%, cấp xã đạt đạt 99,56%; chỉ số phục vụ người dân, doanh nghiệp của UBND huyện đạt 90,39%.

Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể ngày càng mở rộng đều khắp các địa bàn dân cư, thôn, tổ; thực sự trở thành cầu nối giữa Nhân dân với Đảng. Thực hiện có hiệu quả việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động và các hình thức tập hợp quần chúng, chú trọng hướng về cơ sở; đi sâu tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của Nhân dân, quan tâm đến lợi ích của quần chúng và cộng đồng xã hội, nắm được những khó khăn vướng mắc, bức xúc nảy sinh từ đời sống, kịp thời phản ánh và cùng với Đảng, chính quyền tập trung giải quyết ngay từ cơ sở. Qua đó, tạo được niềm tin và thu hút đông đảo đoàn, hội viên, các tầng lớp nhân dân tham gia vào các chương trình phát triển kinh tế xã hội, phát huy được tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, tình làng nghĩa xóm, hăng say thi đua lao động sản xuất.

Công tác xây dựng Đảng được tăng cường trên cả 4 mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Các tổ chức cơ sở đảng được tập trung củng cố, sắp xếp phù hợp với đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Năm 1986, toàn Đảng bộ có 32 TCCS Đảng với 466 đảng viên, thì nay Đảng bộ huyện có 40 TCCS Đảng với 2022 đảng viên. Cùng với chú trọng phát triển đảng viên mới, đã chỉ đạo thực hiện nghiêm túc và kiên quyết việc rà soát, sàng lọc đưa ra khỏi Đảng những đảng viên không còn đủ tư cách. Chất lượng của tổ chức Đảng và đảng viên không ngừng được nâng lên. Năm 2024, (1) về xếp loại tổ chức cơ sở đảng có 13,95% hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; 74,42% hoàn thành tốt nhiệm vụ; 9,3% hoàn thành nhiệm vụ và 2,33% không hoàn thành nhiệm vụ; (2) về đảng viên có 13,62% hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, 83,36% hoàn thành tốt nhiệm vụ; 2,28% hoàn thành nhiệm vụ và 0,74% không hoàn thành nhiệm vụ. Đội ngũ cán bộ từ huyện đến cơ sở trưởng thành và từng bước được chuẩn hóa, trẻ hóa. Từ chỗ cán bộ cấp huyện có trình độ chuyên môn đại học, cao đẳng chỉ tính trên đầu ngón tay ở ngày đầu thành lập huyện thì nay đội ngũ cán bộ địa phương, nhất là cán bộ chủ chốt huyện và cơ sở đã được chuẩn hóa, trong đó, Cấp ủy huyện về trình độ chuyên môn Thạc sĩ (22,8%), đại học (77,2%); về trình độ chính trị: 100% cao cấp; Cấp ủy cơ sở về trình độ chuyên môn: Thạc sĩ (14%); Đại học (85%); về trình độ chính trị: Cao cấp (19,6 %), Trung cấp (80,4 %). Nhìn chung cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có tư duy quản lý tốt, sự đổi mới trong công tác điều hành, tính năng động, nhạy bén; đội ngũ cán bộ vững mạnh, gương mẫu, trong sạch về đạo đức, lối sống; có trình độ và năng lực thực tiễn, cơ bản đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ.

Công tác đối ngoại được mở rộng, chú trọng đẩy mạnh các hoạt động giới thiệu, quảng bá, xúc tiến kêu gọi đầu tư trong nước và thực hiện thu hút viện trợ phi Chính phủ đảm bảo đúng chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước.

Với những kết quả đạt được, năm 2016, huyện Hiệp Đức vinh dự được tặng Huân chương Lao động Hạng Nhất và trong những năm qua, nhiều tập thể, cá nhân được Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, UBND tỉnh tặng Huân chương Lao động, Cờ, Bằng khen và công nhận chiến sĩ thi đua...

Có thể khẳng định, những thành tựu đạt được trong 39 năm qua là minh chứng cho sự lãnh đạo đúng đắn, năng động của các cấp ủy Đảng, sự điều hành, quản lý chặt chẽ của chính quyền, sự phối hợp đồng bộ của Mặt trận, đoàn thể, đặc biệt sự đóng góp tích cực của Nhân dân huyện nhà. Đây là tiền đề vững chắc, động lực to lớn thúc đẩy huyện tiếp tục phát triển mạnh hơn nữa, tiến tới xây dựng Hiệp Đức trở thành huyện nông thôn mới vào năm 2030 và sẵn sàng cùng với cả nước tiến vào kỷ nguyên mới, “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”.

Tin liên quan